Saturday, January 21, 2012

Phong Thủy - Coi ngày tốt Xấu


Có ngày tốt hay xấu không ?

Viết về phong tục cổ truyền mà cố tình lảng tránh vấn đề này, ắt không thoả mãn yêu cầu của số đông bạn đọc, vì lễ cưới, lễ tang, xây nhà dựng cửa, khai trương, xuất hành... còn nhiều người, nhiều nơi chú trọng ngày lành.

Ðó là một thực tế. Ngặt vì có một số người bài bác hẳn, cho là gieo rắc mê tín dị đoan, một số khác lại quá mê tín, nhất là việc lớn việc nhỏ, việc gì cũng chọn ngày, từ việc mua con lợn, làm cái chuồng gà, cắt tóc cho con, đi khám bệnh... mọi điều may rủi đều đổ lỗi cho việc không chọn ngày, chọn giờ. 

Một số đông khác tuy bản thân không tin nhưng chiều ý số đông, làm ngơ để cho vợ con đi tìm thầy lễ, thầy cúng định ngày giờ xét thấy không ảnh hưởng gì nhiều, hơn nữa, để tránh tình trạng sau này lỡ sẩy ra sự gì không lành lại đổ lỗi cho mình "Báng". Thế tất một năm, năm mười năm, đối với một người đã đành, đối với cả nhà, cả chi họ làm sao hoàn toàn không gặp sự rủi ro! Ngày tốt, ngày xấu về khí hậu thời tiết thì dự báo của cơ quan khí tượng là đáng tin cậy nhất. Khoa học đã dự báo được hàng trăm năm những hiện tượng thiên nhiên như nhật thực, nguyệt thực, sao chổi, sao băng... chính xác đến từng giờ phút.

Nhưng tác động của tự nhiên sẽ tạo nên hậu quả xấu đối với từng người, từng việc, từng vùng ra sao, đó còn là điều bí ẩn. Thời xưa, các bậc trí giả tranh cãi nhiều vẫn chưa ngã ngũ nên ai tin cứ tin, ai không tin thì tuỳ "Linh tại ngã, bất linh tại ngã" (cho rằng thiêng cũng đã tự mình ra, cho rằng không thiêng, cũng tự mình ra), "Vô sư vô sách, quỉ thần bất trách" (không biết vì không có thầy, không có sách, quỷ thần cũng không trách).

Thực tế, có ngày mọi việc mọi điều đều thành công, nhiều điều may mắn tự nhiên đưa tới, có ngày vất vả sớm chiều mà chẳng được việc gì, còn gặp tai nạn bất ngờ. Phép duy vật biện chứng giải thích đó là qui luật tất nhiên và ngẫu nhiên. Trong tất nhiên có yếu tố ngẫu nhiên, trong ngẫu nhiên cũng có yếu tố tất nhiên. Lý luận thì như vậy nhưng có bạn đọc cũng muốn biết cụ thể trong tháng này, ngày nào tốt, ngày nào xấu, ngày nào tốt cho việc làm nhà, cưới vợ, tang lễ phải tránh giờ nào...Ða số bà con ta vẫn nghĩ  "có thờ có thiêng, có kiêng có lành", nhất là khi điều kiêng đó không ảnh hưởng gì mấy tới công việc cũng như kinh tế...

Thời xưa, mặc dầu có người tin, có người không tin, toà Khâm thiên giám ban hành "Hiệp kỷ lịch", mà số người biết chữ Hán khá nhiều nên phần đông các gia đình cứ dựa vào đó mà tự chọn ngày giờ. Thời nay, rải rác ở các làng xã, còn sót lại một vài người còn biết chữ Hán nhưng sách vở cũ hầu như không còn, các gia đình muốn xem ngày giờ để định liệu những công việc lớn đành mất công tốn của tìm thầy. Khốn nỗi, mỗi thầy phán một cách, chẳng biết tin ai. Ðã có trường hợp, bốn ông bà thông gia vì việc chọn ngày tốt xấu, tuổi hợp tuổi xung, tranh cãi nhau phải chia tay để lại mối hận tình. 

Gần đây trên thị trường xuất hiện cuốn sách viết về cách xem ngày tính giờ. Cũng có tác giả có kiến thức, có tư liệu, viết rất thận trọng, nhưng ngược lại có người viết rất cẩu thả, dựa theo thị hiếu thương trường, vô căn cứ với động cơ kiếm tiền bất chính. Có cuốn sách tốt xấu, thực hư lẫn lộn, không có tên nhà xuất bản, không có tên tác giả, không ghi xuất xứ của tư liệu... Cùng một ngày, cuốn này, ghi nên xuất hành, cưới hỏi, cuốn khác ghi kỵ xuất hành, cưới hỏi, làm người xem rất hoang mang. "Sư nói sư phải, vãi nói vãi hay", biết tin vào đâu? Biết tìm ai mà hỏi?

Ðể đáp ứng nhu cầu của một số bạn đọc, chúng tôi xin trích dẫn một số tư liệu khoa học và toàn văn bài "Xem ngày kén giờ" của học giả Phan Kế Bính đăng trong cuốn "Việt Nam phong tục" xuất bản năm 1915, tái bản năm 1990 tại nhà xuất bản TP. Hồ Chí Minh và chúng tôi xin có phần chủ giải (cũng bằng những câu hỏi). Nhưng trước khi xem nên nhắc lại các bạn: "Khi gia đình có việc hệ trọng, cần nhiều người tham dự thì càng thận trọng càng hay, nhưng chớ quá câu nệ nhiều khi nhỡ việc. Mỗi người một thuyết, mỗi thầy một sách, rối rắm quá, có khi cả tháng không chọn được ngày tốt. Xem như trong cuốn "Ngọc hạp kỷ yếu" không có một ngày nào hoàn toàn tốt, hoặc hoàn toàn xấu đối với mọi người, mọi việc, mọi địa phương.

Có ngày tốt ngày xấu không ?

Có những bạn đọc hỏi: Chúng ta đã từng phê phán và sẽ tiếp tục phê phán mọi loại thầy bói, mê tín dị đoan, bịp bợm. Nhưng gần đây lại thấy nhiều người bão: Khoa học có thể tính toán để biết trước ngày tốt, ngày xấu, thực hư ra sao?

Thầy bói là người hành nghề mê tín, biết nắm tâm lý, "bắt mạch" đối tượng (qua nét mặt, lời nói, chi tiết trình bày và những câu thăm dò...). Nhưng bài viết này không nói về họ mà chỉ điểm qua những điều khoa học dự tính để biết trước ngày lành, tháng tốt... của mỗi người.

Nhịp sinh học đặc điểm của sự sống: Nghiên cứu mọi cơ thể sống đều thấy hoạt động của chúng không phải lúc nào cũng giống lúc nào mà có khi mạnh khi yếu, khi nhanh khi chậm... Những thay đổi đó nhiều khi xảy ra rất đều đặn và liên tiếp thành chu kỳ, còn gọi là nhịp sinh học: Có nhịp ngày đêm, nhịp tháng (liên quan đến âm lịch) nhịp mùa xuân, hạ, thu, đông... Các nhịp sinh học có tính di truyền. Phát hiện ra các nhịp sinh học người ta nhận thấy các quá trình sinh lý trong cơ thể có thể biến đổi theo thời gian. Sự biến cố đó có tính chất chu kỳ và tuần hoàn (lặp đi lặp lại khá đều đặn).

Nghiên cứu về sự chết và tỷ lệ chết của con người, thấy có nhiều biển đổi tuỳ thuộc vào nguyên nhân gây chết. Thí dụ: Vào khoảng 3-4 giờ sáng áp suất máu thấp nhất, não được cung cấp lượng máu ít nhất nên người bệnh hay bị chết nhất. Các cơn động kinh thường có giờ. Bệnh nhân hen cũng thường lên cơn hen về đêm vào khoảng 2-4 giờ sáng (trùng với thời gian bài tiết cóc-ti-cô-ít ra nước tiểu xuống tới mức thấp nhất). Cơn hen về đêm nặng hơn cơn hen ban ngày. Những biến đổi có tính chất chu kỳ hàng năm thì có nguy cơ chết về đau tim cao nhất là vào tháng giêng đối với một số nước ở bán cầu phía Bắc. Cao điểm hàng năm của các vụ tự tử ở bang Min-ne-so-ta cũng như ở Pháp là vào tháng 6. Hai nhà khoa học An-đơ-lô-ơ và Mét đã phân tích 3620 trường hợp tai nạn lao động và thấy làm ca đêm ít tai nạn hơn làm ca sáng và chiều.

Ngày vận hạn của mỗi người: Trên cơ sở tính toán ảnh hưởng của các yếu tố vũ trụ lên trái đất và bằng phương pháp tâm sinh lý học thực nghiệm, người ta đã rút ra kết luận là từ khi ra đời, cuộc sống của mỗi người diễn ra phù hợp với ba chu kỳ riêng biệt: Chu kỳ thể lực: 23 ngày, chu kỳ tình cảm 28 ngày, chu kỳ trí tuệ 33 ngày. Mỗi chu kỳ gồm hai bán chu kỳ dương và âm. Bán chu kỳ dương (1/2 số ngày của đầu chu kỳ) được đặc trưng bằng sự tăng cường khả năng lao động. Còn bán chu kỳ âm (1/2 số ngày cuối chu kỳ)thì các hiện tượng đều ngược lại. Cả ba chu kỳ trên đều chuyển tiếp từ bán chu kỳ dương sang bán chu kỳ âm. Ngày trùng với điểm chuyển tiếp này là ngày xấu nhất của mỗi chu kỳ. Thực tế đã chứng minh: Ðối với chu kỳ tình cảm, vô cớ. Ðối với chu kỳ trí tuệ, đó là ngày đãng trí, khả năng tư duy kém. Ðặc biệt đối với chu kỳ thể lực, đó là ngày thường xảy ratai nạn lao động. Ðối với hai chu kỳ, số ngày chuyển tiếp trùng nhau chỉ xảy ra một lần trong một năm. Ngày trùng hợp đó của ba chu kỳ là ngày xấu nhất, có thể coi là ngày "Vận hạn" của mỗi người.

Nếu biết ngày, tháng, năm sinh của mỗi người, nhờ máy tính điện tử có thể dễ dàng xác định được các chu kỳ, điểm chuyển tiếp và sự trùng hợp điểm chuyển tiếp giữa các chu kỳ.

Công ty giao thông của Nhật Bản Omi Reilvei đã áp dụng thành tựu vào bảo vệ an toàn giao thông. Họ đã xác định các chu kỳ, các điểm chuyển tiếp giữa các chu kỳ của từng người lái và báo cho lái xe biết trước những "ngày xấu" để họ phòng tránh. Nhờ đó số tai nạn giao thông ở Nhật Bản đã giảm đi rất nhiều, đặc biệt vào đầu năm áp dụng (969-1970) số tai nạn giao thông đã giảm hẳn 50%.

Theo Cup-ria--vít (Liên Xô cũ) thì giả thuyết về nhịp tháng của các quá trình sinh học xác định ba trạng thái của cơ thể, không chỉ áp dụng ở Nhật Bản mà còn được áp dụng ở nhiều nước Tây Âu vào công tác an toàn, giao thông nói riêng, an toàn lao động nói chung.
Các vấn đề trên đây không phải là "thầy bói nói mò" mà dựa vào một dữ kiện thực tế nhất định. Nó cũng phù hợp với nhận thức về mối quan hệ tương tác giữa các yếu tố địa vật lý vũ trụ với các quá trình hoạt động chức năng của cơ thể.

(Bác sĩ Vũ Ðịnh - Trích báo "Hà nội mới chủ nhật" số 73)

Vua Trần Minh Tông với việc chọn ngày làm lễ an táng mẹ.

Năm 1332 Thuận thánh Bảo từ Hoàng Thái Hậu mất. Con là Thượng Hoàng Minh Tông lúc đó đã nhường ngôi cho con là Hiến Tông. Thượng hoàng sai các quan chọn ngày chôn cất. Có người tâu rằng: "Chôn năm nay tất hại người tế chủ". Thượng hoàng hỏi : "Người biết sang năm ta nhất định chết à?". Người ấy trả lời không biết. Thượng hoàng lại hỏi: "Nếu sang năm trở đi ta chắc chắn không chết thì hoán việc chôn mẫu hậu cũng được, nếu sang năm ta chết thì lo xong việc chôn cất mẫu hậu chẳng hơn là chết mà chưa lo được việc đó ư? Lễ cát, lễ hung phải chọn ngày là vì coi trọng việc đó thôi, chứ đâu phải câu nệ hoạ phúc như các nhà âm dương". Rốt cuộc Thượng hoàng vẫn cử hành lễ an táng.
(Trích "ÐạiViệt sử ký toàn thư" - QVII , Tr 56)

Xem ngày - Kén giờ.
Việc cưới xin, việc làm nhà cửa, việc vui mừng khai hạ, việc xuất hành đi xa, việc khai trương cửa hàng, cửa hiệu, việc gieo mạ cấy lúa, việc tế tự, việc thương biểu, việc nhập học, việc xuất quân, việc an táng... Việc gì thường cũng bắt đầu làm việc gì, hoặc động thổ hoặc xuất hành, hoặc khai bút, khai ấn... lại cần xem ngày lắm. Ðến những việc vụn vặt như cạo đầu xỏ tai cho trẻ thơ, việc tắm gội, may áo... cũng có người cẩn thận quá trong kén ngày.

Kén thì phải xem đến lịch. Sách lịch do toà khâm thiên giám soạn ra. Mỗi năm về ngày mồng một tháng chạp, Hoàng Ðế ngự điện khai trào, các quan Khâm thiên giám cung tiến Hiệp Kỷ Lịch, rồi khâm mạng vua mà ban lịch khắc nơi... Ban lịch trọng thể nhất là để cho thiên hạ biết chính xác nhất tiết khí, tháng thiếu tháng đủ, ngày tốt ngày xấu, để tuân hành được đều nhau.

Ðại để ngày nào có nhiều sao cát tinh như thiên đức, nguyệt đức, thiên ân, thiên hỷ... hoặc là ngày trực khai, trực kiến, trực bình, trực mãn thì là ngày tốt. Ngày nào có những sao hung tính như sao trùng tang, trùng phục, thiên hình, nguyệt phá thì là ngày xấu.

Kiêng nhất là ngày sát chủ, ngày thụ tử, việc gì cũng phải tránh. Mỗi tháng có ba ngày là ngày năm, mười bốn, hai mươi ba, gọi là ngày nguyệt kỵ, việc gì cũng nên kiêng và nhất là nên kiêng nhập phòng. Trong một năm lại có mười ba ngày gọi là ngày Dương công kỵ nhật, hết thảy việc gì cũng phải tránh những ngày ấy.

Những ngày ấy là:
Ngày 13 tháng giêng
Ngày 11 tháng hai
Ngày 9 tháng ba
Ngày 7 tháng tư
Ngày 5 tháng năm
Ngày 3 tháng sáu
Ngày 8 tháng bảy
Ngày 29 tháng bảy 
Ngày 27 tháng tám
Ngày 25 tháng chín
Ngày 23 tháng mười
Ngày 21 tháng một 
Ngày 19 tháng chạp
Hễ phạm phải ngày ấy thì việc gì cũng hư hỏng không thành. Phàm việc lại cần kén ngày hợp mệnh, mà kiêng ngày tuổi. Ngoại giả lại còn những ngày thập linh, ngày đức hợp là tốt, ngày thập ác đại bại, ngày tứ lỵ, ngày tứ tuyệt là xấu. Nói qua mấy việc dân gian cần dùng nên kén nên kỵ.

Cưới xin nên tìm ngày thiên đức, nguyệt đức, kỵ ngày trực phá, trực nguy. Làm nhà nên tìm ngày thiên ân. Thiên hỷ, kỵ ngày thiên hoả, địa hoả và ngày kim lâu. Xuất hành nên tìm ngày lộc mã, hoàng đạo, kỵ ngày trức phá, trực bế. An táng nên tìm ngày thiên hỷ, thiên đức, kỵ ngày tử khí quan phù... Còn như kén giờ thì việc gì lúc mới bắt đầu như lúc mới xuất hành, lúc mới ra ngõ đi cưới, lúc mới dựng nhà, lúc hạ huyệt... Thường đều kén lấy giờ hoàng đạo.
Phép tính giờ hoàng đạo phải nhớ bốn câu thơ:
Dần, thân gia tý mão dậu dần
Thìn, tuất tầm thìn: tý ngọ thân
Tị, hợi thiên cương tầm ngọ vị
Sửu mùi tòng tuất định kỳ chân

Lại cần phải nhớ hai câu:
Ðạo viễn kỷ thời thông đạt
Lộ dao hà nhật hoàn trình.


Lúc đánh giờ trước hết phải biết ngày gì, rồi dùng hai câu thơ dưới mà bấm theo giờ ở bốn câu thơ trên. Hễ bấn mà gặp cung nào có chữ "đạo, viễn, thông, đạt, dao hoàn" thì giờ ấy là giờ hoàng đạo... Xét phép chọn ngày, từ đời Ðường, Ngu, Tam đại đã có. Song khi bấy giờ thì chỉ tuỳ việc mà chọn ngày: Nội sự dụng nhu, ngoại sự dụng cương. 
Nội sự là việc trong như việc tế tự cưới xin... thì dùng những ngày âm can là các ngày: ất, đinh, kỷ, tân, quý. Ngoại sự là việc ngoài như đánh dẹp, giao thiệp... thì dùng ngày dương can là các ngày: Giáp, bính, mậu, canh, nhâm. Dùng như thế chỉ có ý làm các việc êm ái, hoà nhã thì theo về ngày âm, việc cứng cáp mạnh mẽ thì theo về ngày dương, nghĩa kén lấy ngày có chút ý nghĩa hợp với nhau mà thôi.

Ðến đời sau các nhà âm dương thuật số mỗi ngày mới bày thêm ra ngày tốt, ngày sao xấu, ngày này nên là việc nọ, ngày kia nên làm việc kia. Hết ngày rồi lại có giờ sinh, giờ hợp, giờ xung, giờ khắc, động làm việc gì cũng phải xem ngày, kén giờ, thực là một việc phiền toái quá. Ðã đành làm việc gì cũng nên cẩn thận, mà chọn từng ngày, kén từng giờ mà phí câu nệ khó chịu. 
Mà xét cho kỹ thì có ích gì đâu, chẳng qua việc thành hay bại cốt do ở người chớ có quan hệ gì ngày tốt hay ngày xấu. Nếu cứ chọn ngày giờ mà nên việc thì không cần gì phải dùng đến sức người nữa hay sao ?

Cách tính ngày Hoàng Đạo, Hắc Đạo.
Bảng kê ngày Hoàng Đạo, Hắc Đạo theo lịch can chi từng tháng.
Tháng âm lịch
Ngày hoàng đạo (tốt)
Ngày hắc đạo (xấu)
Giêng, Bảy
Hai, Tám
Ba, Chín
Tư, Mười
Năm, Một
Sáu, Chạp
Tý, Sửu, Tị, Mùi
Dần, Mão, Mùi, Dậu
Thìn, Tị, Dậu, Hợi
Ngọ, Mùi, Sửu, Dậu
Thân, Dậu, Sửu, Mão
Tuất, Hợi, Mão, Tị
Ngọ, Mão, Hợi, Dậu
Thân, Tị, Sửu, Hợi
Tuất, Mùi, Sửu, Hợi
Tý, Dậu, Tị, Mão,
Dần, Hợi, Mùi, Tị
Thìn, Sửu, Dậu, Mùi

Ðối chiếu bảng trên thì biết :
Ngày hoàng đạo của tháng giêng và tháng 7 âm lịch là những ngày tý, sửu, tị, mùi.
Ngày hắc đạo của tháng giêng và tháng 7 âm lịch là những ngày ngọ, mão, hợi, dậu.


Cách đổi ngày Dương Lịch ra ngày Can Chi.
Ngày can chi theo chu kỳ 60, độc lập không lệ thuộc vào năm tháng âm lịch hay năm tháng can chi (Kể cả tháng nhuận). Tính ngày can chi chuyển đổi sang âm lịch rất phức tạp vì tháng âm lịch thiếu đủ từng năm khác nhau, ngược lại tính ngày can chi theo dương lịch đơn giản hơn.

Cách tính ngày dương lịch ra ngày can chi:
1.       Mỗi năm dương lịch có 365 ngày, nghĩa là 6 chu kỳ Lục thập hoa giáp cộng thêm 5 ngày lẻ.
2.       Năm nhuận có thêm 1 ngày 29/2 tức 366 ngày, thì cộng thêm 6 ngày lẻ.
Nếu lấy ngày 1/3 là ngày khởi đầu thì các ngày sau đây trong mọi năm cùng can chi giống 1/3 : 1/3, 30/4, 39/6, 28/8, 27/10, 26/12, 24/2 năm sau đó. Nếu biết ngày 1/3 (hay một trong bảy ngày nói trên) là ngày gì, ta dễ dàng tính nhẩm những ngày bất kỳ trong năm (gần với một trong bảy ngày nói trên).
Nếu muốn tính những ngày 1/3 năm sau hay năm sau nữa chỉ cần cộng thêm số dư là 5 đối với năm thường (tức là từ 24-28/2) hoặc là 6 đối với năm nhuận (có thêm ngày 29/2). Thí dụ: ngày 1/3 năm 1995 là ngày Tân Mão, từ đó tính nhẩm 25/2/1996 cũng là ngày Quí Tị, 27/2/1996 là ngày giáp Ngọ. (1996 có hàng chục đơn vị chia hết cho 4 tức là năm nhuận có ngày 29/2).
 
Ta biết 1/3/1996 là ngày Ðinh Dậu vậy 24/21997 cũng là Ðinh Dậu. Chỉ cần cộng thêm 5 ngày. Ta dễ dàng tính ra 1/3/1997 là ngày Nhâm Dần, theo tính nhẩm từ Ðinh đến Nhâm hay Dậu đến Dần là 5 ngày. (Xem bài so sánh âm dương lịch ở phần Phụ lục sẽ trình bày năm nào nhuận dương lịch và nhuận âm lịch). Thí dụ: Theo cách tính trên ngày 1/3/1997 là ngày Nhâm Dần, ngày 26/12/1997 cũng là ngày Nhâm Dần, vậy ngày1/1/1998 sẽ là ngày Mậu Thân (sau đó 6 ngày)...  

Cách tính ngày Tết, Ngày trực và Ngày nhị thập bát tú.
Cách tính ngày tiết: Một năm có 24 khí tiết. Khí tiết phù hợp theo dương lịch. Ðối chiếu khi tiết với ngày dương lịch hàng năm chỉ chênh lệch lên xuống một ngày, bởi dương lịch 4 năm nhuận một ngày 29/2 mà ngày tiết không tính nhuận (Xem bảng đối chiếu ngày dương lịch với 24 khí tiết).
Cách tính ngày trực: Có 12 trực theo trình tự từ trực kiến đến trực bế, mỗi ngày một trực:1) Kiến (tốt), 2) trừ (thường), 3) mãn (tốt), 4) bình (tốt), 5) định (tốt), 6) chấp (thường), 7) phá (xấu), 8) nguy (xấu), 9) thành (tốt), 10) thu (thường), 11) khai (tốt), 12) bế (xấu).

Vị dụ: Tháng giêng âm lịch tức tháng hai dương lịch trực kiến tạo ngày dần kể từ tiết lập xuân trở đi. Tiếp sau ngày đó mão trực trừ, ngày thìn trực mãn, ngày tị trực bình... ngày sửu trực bế.
Sau lập xuân
Trực kiến tại dần
Sau kinh trập
Trực kiến tại mão
Sau thanh minh
Trực kiến tại thìn
Sau lập hạ
Trực kiến tại tị
Sau mang chủng
Trực kiến tại ngọ
Sau tiểu thử
Trực kiến tại mùi
Sau lập thu
Trực kiến tại thân
Sau bạch lộ
Trực kiến tại dậu
 Sau lập đông
Trực kiến tại tuất
Sau đại tuyết
Trực kiến tại tý
Sau tiểu hàn
Trực kiến tại sửu

Bảng kê ngày tiết theo dương lịch và ngày khởi đầu trực kiến theo ngày tiết  


Tên ngày tiết khí
Ngày dương lịch
Ngày khởi đầu trực kiến

Lập xuân
Vũ thuỷ
Kinh trập
Xuân phân
Thanh minh
Cốc vũ
Lập Hạ
Tiểu mãn
Mang chủng
Hạ chí
Tiểu thử
Ðại thử
Lập thu
Xử thử
Bạch lộ
Thu phân
Hàn lộ
Sương giáng
Lập đông
Tiểu tuyết
Ðại tuyết
Ðông chí
Tiểu hàn
Ðại hàn
4 hoặc 5 tháng 2
19 hoặc 20 tháng 2
6 hoặc 7 tháng 3
21 hoặc 22 tháng 3
5 hoặc 6 tháng 4
20 hoặc 21 tháng 4
6 hoặc 7 tháng 5
21 hoặc 22 tháng 5
6 hoặc 7 tháng 6
21 hoặc22 tháng 6
7 hoặc 8 tháng 7
23 hoặc 24 tháng 7
8 hoặc 9 tháng 8
23 hoặc 24 tháng 8
8 hoặc 9 tháng 9
23 hoặc 24 tháng 9
8 hoặc 9 tháng 10
23 hoặc 24 tháng 10
8 hoặc 9 tháng 11
22 hoặc 23 tháng 11
7 hoặc 8 tháng 12
22 hoặc 23 tháng 12
6 hoặc 7 tháng 1
20 hoặc 21 tháng 1
Dần
_
Mão
_
Thìn
_
Tị
_
Ngọ
_
Mùi
_
Thân
_
Dậu
_
Tuất
_
Hợi
_

_
Sửu
_



Bảng đối chiếu Nhị thập bát tú với tuần lễ
1
2
3
4
5
6
7
Giác (Mộc)
Cáng (Kim)
Ðê (Thổ)
Phòng (nhật)
Tàm (nguyệt)
Vĩ (Hoả)
Cơ (thuỷ)
thứ 5
thứ 6
thứ 7
chủ nhật
thứ 2
thứ 3
thứ 4
tốt
xấu
xấu
tốt
xấu
tốt
tốt
nhưng kỵ an táng và sửa mộ
8
9
10
11
12
13
14
Ðẩu (mộc)
Ngưu (kim)
Nữ (thổ)
Hư (nhật)
Nguy (nguyệt)
Thất (hoả)
Bích  (thuỷ)
thứ 5
thứ 6
thứ 7
chủ nhật
thứ 2
thứ 3
thứ 4
tốt
xấu
xấu
xấu
xấu
tốt
tốt
15
16
17
18
19
20
21
Khuê (mộc)
Lâu (kim)
Vị (Thổ)
Mão (Nhật)
Tất (nguyệt)
Chuỷ (hoả)
Sâm (thuỷ)
thứ 5
thứ 6
thứ 7
chủ nhật
thứ 2
thứ 3
thứ 4
vừa
tốt
xấu
tốt
tốt
xấu
tốt
Các việc xấu, riêng làm nhà, học thi tốt


Riêng tạo tác được


riêng hôn nhân an táng xấu
22
23
24
25
26
27
28
Tỉnh (mộc)
Quỷ (kim)
Liễu (thổ)
Tinh (nhật)
Trương (nguyệt)
Dự (hoả)
Chẩn (thuỷ)
thứ 5
thứ 6
thứ 7
chủ nhật
thứ 2
thứ 3
thứ 4
tốt
xấu
xấu
xấu
tốt
xấu
tốt

riêng an táng tốt

riêng làm nhà được

Giờ Hoàng Đạo là gì?
Cách chọn giờ Hoàng Đạo.
Theo phong tục cổ truyền, khởi đầu mộc việc gì, ngoài việc chọn ngày lành tháng tốt còn phải chọn giờ tốt. Xuất hành, khởi công xây dựng, khai trương cửa hàng, bắt đầu đi đón dâu, đưa dâu, bắt đầu lễ đưa ma, hạ huyệt đều phải chọn giờ hoàng đạo.
Trừ trường hợp đặc biệt, ví dụ sắp đến giờ tàu, xe xuất phát, nếu đợi giờ tốt có khi nhỡ kế hoạch; hoặc có giờ tốt, ngày tốt, nhưng thời tiết rất xấu, chưa khởi công được... Nếu cứ quá câu nệ nhiều khi lại hỏng việc.
Ðể chọn ngày hoàng đạo, có thể xem phần "Chọn ngày kén giờ" của Phan Kế Bính. Chúng tôi cũng giới thiệu một phương pháp đơn giản giúp bạn không biết chữ Hán cũng có thể tự xem được giờ hoàng đạo.
Trước hết xem lịch để biết ngày hàng chi là ngày nào (từ Tý đến Hợi).
Một ngày đêm âm lịch là 12 giờ (2 tiếng đồng hồ là một giờ), bắt đầu là giờ Tý (chính là 12 giờ đêm) theo thứ tự : Tý, Sửu, Dần, Mão, Thìn, Tị, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi.
Mỗi câu lục bát sau đây có 14 chữ: Hai chữ đầu chỉ 2 ngày, chữ 3 chỉ giờ Tý, chữ thứ 4 chỉ giờ Sửu, lần lượt theo thứ tự từ chữ thứ 3 đến chữ 14 chỉ từ giờ Tý, Sửu, Dần, Mão... xem trong bảng, thấy chữ nào có phụ âm đầu là chữ "Ð" thì đó là giờ hoàng đạo.
Phân tích tỉ mỉ hơn thì đó là các giờ: Thanh long, Minh đường, Kim đường, Thiên lương, Ngọc đường, Hoàng đạo.


Bảng tính giờ Hoàng Đạo.
Ngày
Sưử
Dần
Mão
Thìn
Tị
Ngọ
Mùi
Thân
Dậu
Tuất
Hợi
Dần, thân
Mão, dậu
Thìn, tuất
Tỵ, hợi
Tý, ngọ
Sửu, mùi
Ði
Ðến
ai
cuối
Ðẹp
sẵn
Ðứng
cửa
ngóng
Ðất
Ðẽ
kẻ
bình
Ðộng
Ðợi
cùng
tiền
Ðưa
yên
Ðào
ai
trời
Ðồ
Ðường
Ðến

Ðường
Ðến
qua
băng
Ðâu
tiên
Ði
nơi
sông
Ðèo
cũng
Ðưa
suông
Ðắc
Ðừng
vượt
Ðược
Ðón
sẽ
Ðịa
vội
suối
người
qua
Ðẹp
còn
Ðợi
Ðem
quen
Ðèo
Ðôi
ngồi
Ðò
Ðem
Ðón
thiên
bạn
Ðắn
sang
Ðòn
chào
thai
Ðời
Ðo
ngang
Ðiền
Ví dụ: Xem bảng trên biết được : ngày Dần hoặc ngày Thân thì giờ hoàng đạo đóng ở các giờ: Tý, Sửu, Thìn, Tỵ, Mùi, Tuất.

Giải thích bài xem ngày , kén giờ của Phan Kế Bính.

Ðọc bài xem ngày, kén giờ của Phan Kế Bính, bạn đọc trẻ tuổi thời nay sẽ có một số thắc mắc:
Phan Kế Bính là một nhà trí thức tiến bộ (1875-1921) học vấn uyên thâm, đỗ cử nhân Hán học (1906), lại am tường văn minh Ðông Tây, đã có nhiều cống hiến trong công cuộc khảo cứu văn học và lịch sử. Ông khuyên ta không nên mê tín quá vào việc xem ngày kén giờ, nhưng tại sao không bài bác thẳng thừng mà còn hướng dẫn người đọc: cưới xin, làm nhà, khai trương, xuất hành, an táng nên tìm ngày gì, kỵ ngày gì và bày cách chọn giờ hoàng đạo.

Trong bài có nói đến nhiều cát tinh (sao tốt), hung tinh (sao xấu), các ngày trực tốt trực xấu. Vậy sao không hướng dẫn cụ thể nên những người đọc muốn kén ngày, giờ vẫn phải đi tìm thầy, nhiều khi vừa tốn kém lại vừa bị lừa bị bịp.

Theo thiển ý chúng tôi: Ông không đi sâu giải thích từng cát tinh hung tinh vì trong thời kỳ đầu thế kỷ đã có bản niên giám ban hành nhiều năm và nhiều người biết tiếng Hán xem được.

Nhằm giải đáp những thắc mắc trên và giúp bạn trẻ thời nay hiểu thêm về một số vấn đề mà học giả Phan Kế Bính đã đề cập tới, trong phần chú giải dưới đây, chúng tôi dựa theo những tư liệu bằng tiếng Hán đã được lưu truyền như "Vạn niên lịch", "Ngọc hạp kỷ yếu", "Chư gia tuyển trạch nhật", "Ðổng công trạch nhật","Vạn bảo toàn thư" đối chiếu với lịch thế kỷ XX của nha khí tượng và một số bài viết của các nhà khoa học để làm nhiệm vụ biên khảo, dẫn giải tiếp bài viết của Phan Kế Bính.

Thực ra muốn trả lời cho thật đầy đủ và cụ thể phải đi sâu vào chiêm tinh học cổ đại mà cuốn sách này chưa thể đáp ứng.

Có những cách tính ngày tốt xấu cơ bản như sau:

Tính theo tháng âm lịch và ngày can chi:
Các sao tốt: Thiên đức, nguyệt đức (lục hợp), thiên giải, thiên hỷ, thiên quý (yếu yên),tam hợp (ngũ phú). Theo quan niệm xưa, những ngày có các sao này chiếu thì làm việc gì cũng tốt.

Ngoài ra còn có các sao: Sinh khí (thuận việc làm nhà, sửa nhà, động thổ), thiên thành (cưới gả giao dịch tốt), thiên quan (xuất hành giao dịch tốt), lộc mã (xuất hành di chuyển tốt), phúc sinh (được phúc tốt), giải thần (giải trừ các sao xấu), thiên ân (được hưởng phúc ân, làm nhà, khai trương)...

Theo thứ tự lần lượt từ tháng giêng, hai, ba, tư, năm, sáu, bảy, tám, chín, mười, mười một, chạp thì các sao tốt sẽ chiếu vào các ngày như sau:

Thiên đức: Tị, mùi, dậu, hợi, sửu, mão, tị, mùi, dậu, hợi, sửu, mão. (Có nghĩa là: Sao thiên đức chiếu vào những ngày tị của tháng giêng, ngày mùi của tháng hai, ngày dậu của tháng ba... Các sao khác cũng xem như vậy.)

Nguyệt đức: Hợi, tuất, dậu, thân, mùi, ngọ, tị, thìn, mão, dần, sửu, tý.
Thiên giải: Ngọ, thân, tuất, tý, dần, thìn, ngọ, thân, tuất, tý, dần, thìn.
Thiên hỷ: Tuất, hợi, tý, sửu, dần, mão, thìn, tị, ngọ, mùi, thân, dậu.  
Thiên quí: Dần, thân, mão, dậu, thìn, tuất, tị, hợi, ngọ, tý, mùi, sửu
Tam hợp: Ngọ, mùi, thân, dậu, tuất, hợi, tý, sửu, dần, mão, thìn, tị.  
Sinh khí: Tý, sửu, dần, mão, thìn, tị, ngọ, mùi, thân, dậu, tuất, hợi.  
Thiên thành: Mùi, dậu, hợi, sửu, mão, tị, mùi, dậu, mùi, sửu, mão, tị
Thiên quan: Tuất, tý, dần, thìn, ngọ, thân, tuất, tý, dần, thìn, ngọ, thân.  
Lộc mã: Ngọ, thân, tuất, tý, dần, thìn, ngọ, thân, tuất, tý, dần, thìn.  
Phúc sinh: Dậu, mão, tuất, thìn, hợi, tị, tý, ngọ, sửu, nùi, dần, thân.  
Giải thần: Thân, thân, tuất, tuất, tý, tý, dần, dần, thìn, thìn, ngọ, ngọ.  
Thiên ân: Tuất, sửu, dần, tị, dậu, mão, tý, ngọ, thân, thìn, thân, mùi.  
Các sao xấu: (mỗi tháng tính theo ngày âm có ba ngày nguyệt kỵ là mồng 5, 14, 23 và 6 ngày tam nương là ngày 3, 7, 13, 18, 22, 27).

Các sao xấu khác tính theo tháng âm lịch và ngày can chi như: Thiên cương, thụ tử, đại hao, tử khí, quan phù (xấu trong mọi việc lớn), tiểu hao (kỵ xuất nhập, tiền tài), sát chủ, thiên hoạ, địa hoả, hoả tai, nguyệt phá (kiêng làm nhà), băng tiêu ngoạ giải (kiêng làm nhà và mọi việc lớn), thổ cấm (kiêng động thổ), vãng vong (kiêng xuất hành giá thú), cô thần, quả tú (kiêng giá thú), trùng tang trùng phục (kỵ hôn nhân, mai táng, cải táng).

Theo thứ tự từ tháng giêng, hai, ba, tư, năm, sáu, bảy, tám, chín, mười, một, chạp thì các sao xấu chiếu như sau:


Thiên cương: Tị, tý, mùi, dần, dậu, thìn, hợi, ngọ, sửu, thân, mão, tuất.  
Thụ tử: Tuất, thìn, hợi, tị, tý, ngọ, sửu, mùi, dần, thân, mão, dậu.  
Ðại hao, tử khí, quan phù: Ngọ, mùi, thân, dậu, tuất, hợi, tý, sửu, dần, mão, thìn, tị
Tiểu hao: Tị, ngọ, mùi, thân, dậu, tuất, hợi, tý, sửu, dần, mão, thìn.  
Sát chủ: Tý, tị, mùi, mão,thân, tuất, sửu, hợi, ngọ, dậu, dần, thìn.  
Thiên hoả: Tý, mão, ngọ, dậu, tý, mão, ngọ, dậu, tý, mão, ngọ, dậu.  
Ðịa hoả: Tuất, dậu, thân, mùi, ngọ, tỵ, thìn, mão, dần, sửu, tý, hợi.  
Hoả tai: Sửu, mùi, dần, thân, mão, dậu, thìn, tuất, tị, hợi, tý, ngọ.  
Nguyệt phá: Thân, tuất, tuất, hợi, sửu, sửu, dần, thìn, thìn, tị, mùi, mùi.  
Băng tiêu ngoạ giải: Tị, tý, sửu, thân, mão, tuất, hợi, ngọ, mùi, dần, dậu, thìn.  
Thổ cấm: Hợi, hợi, hợi, dần, dần, dần, tị, tị, tị, thân, thân, thân.
Thổ kỵ, vãng vong: Dần, tị, thân, hợi, mão, ngọ, dậu, tý, thìn, mùi, tuất, sửu.  
Cô thần: Tuất, hợi, tý, sửu, dần, mão, thìn, tị, ngọ, mùi, thân, dậu.  
Quả tú: Thìn, tị, ngọ, mùi, thân, dậu, tuất, hợi, tý, sửu, dần, mão.  
Trùng phục: Canh, tân, kỷ, nhâm, quí, mậu, giáp, ất, kỷ, bính, đinh, mậu.
Mỗi năm có 13 ngày dương công (xấu).
Tính theo ngày tiết:4 ngày ly và 4 ngày tuyệt (xấu)
Mỗi năm có 4 ngày tứ ly (trước tiết xuân phân, thu phân, đông chí, hạ chí một ngày), 4 ngày tứ tuyệt (trước tiết lập xuân, lập hạ, lập thu, lập đông một ngày).

Tính theo ngày trực:
- Trong 12 ngày trực có 6 ngày tốt (trực kiến (1), trực mãn (3), trực bình (4), trực định (5), trực thành (9), trực khai (11), 3 ngày thường (trực chấp (6), trực trừ (2), trực thu (10), 3 ngày xấu (trực phá (7), trực nguy (8), trực bế (12).
Tính theo nhị thập bát tú:
- Trong 28 ngày có 14 ngày tốt, 14 ngày xấu nhưng nhị thập bát tú tương ứng với ngày tuần lễ. Nói chung ngày thứ tư, thứ năm hàng tuần thường là ngày tốt.

Lục thập hoa giáp là gì? Cách tính năm, tháng, ngày, giờ theo can chi.
Lục thập hoa giáp là sự kết hợp 6 chu kỳ hàng can với 5 chu kỳ hàng chi thành hệ 60.
Cách tính năm, tháng, ngày, giờ đều theo hệ số đó, gọi là lịch can chi. Có 6 chu kỳ hàng can tức là có 6 giáp mà mỗi chu kỳ hàng can hay mỗi giáp gồm 10 can (đó là: Giáp, Ất, Bính, Đinh, Mậu, Kỷ, Canh, Tân, Nhâm, Quí) nên gọi là Lục thập hoa giáp.

Năm: Hết một vòng 60 năm từ giáp tý đến Quí Hợi. Từ năm thứ 61 trở lại Giáp Tý, năm thứ 121,181... cũng trở lại Giáp Tý. Ðó là một điều trở ngại cho việc nghiên cứu sử, nếu không ghi Triều Vua nào thì rất khó xác định. Một gia đình có ông và cháu cùng một tuổi, có khi tính tuổi cháu nhiều hơn tuổi ông, vậy nên khi tình thành dương lịch cần phải chú ý cộng trừ bội số của 60.
Con số cuối cùng của năm dương lịch ứng với các can:

0: Canh (ví dụ canh tý 1780)
2: Nhâm
3: Quí
4: Giáp
5: Ất (ví dụ ất dậu 1945)
6: Bính
7: Đinh
8: Mậu
9: Kỷ  
Bảng tính đổi năm lịch can chi thành năm dương lịch

Cách tính: Cộng hoặc trừ bội số 60 còn dư bao nhiêu, đối chiếu bảng dưới đây sẽ biết năm Can Chi:

Chi/ can
Giáp
Ất
Bính
Ðinh
Mậu
Kỷ
Canh
Tân
Nhâm
Quí
04
16
28
40
52
Sửu
05
17
29
41
53
Dần
54
06
18
30
42
Mão
55
07
19
31
43
Thìn
44
56
08
20
32
Tỵ
45
57
09
21
33
Ngọ
34
46
58
10
22
Mùi
35
47
59
11
23
Thân
24
36
48
00
12
Dậu
25
37
49
01
13
Tuất
14
26
38
50
02
Hợi
15
27
39
51
03

Tháng:
Tháng giêng âm lịch luôn luôn là tháng Dần. 
Tháng hai là Mão, cứ tuân theo thứ tự đó đến tháng 11 là Tý, tháng chạp là Sửu (12 tháng ứng với 12 chi).
Tháng giêng của năm có hàng can Giáp hoặc Kỷ (ví dụ năm Giáp Tý, Kỷ Hợi) là tháng Bính Dần.
Tháng giêng của năm có hàng can Bính, tân là tháng Canh Dần
Tháng giêng của năm có hàng can Đinh, nhâm là tháng Nhâm Dần.
Tháng giêng của năm có hàng can Mậu Quí là tháng Giáp Dần.
Trường hợp năm có tháng nhuận thì cứ theo tháng chính (không đổi).
Ngày:  Ngày âm lịch và ngày can chi chênh lệch nhau rất khó xác định. vị âm lịch trong 19 năm có 7 tháng nhuận, lại có tháng đủ 30 ngày tháng thiếu 29 ngày theo trình tự không nhất định, nên tính ngày can chi theo dương lịch dễ hơn (xem bảng cách đổi ngày can chi sang ngày dương lịch).
Giờ: Một ngày đêm có 24 giờ nhưng theo can chi chỉ có 12 giờ. Giò Tý (chính Tý lúc 0 giờ). giờ Ngọ (chính Ngọ lúc 12 giờ trưa).

Ban ngày tính giờ Dần (tức 4 giờ sáng) đến giờ Thân lúc 4 giờ chiều. Ban đêm tính từ giờ Dậu đến hết giờ Sửu. Nếu theo lịch can thì bắt đầu từ 23 giờ 30 phút đã sang giờ Tý của ngày hôm sau.

Kết hợp Lục thập hoa giáp với Âm Dương ngũ hành để tính tuổi xung khắc với ngày, tháng, năm can chi định chọn:
Tương xung: Có Lục xung hàng chi: Tý xung Ngọ, Sửu xung Mùi, Dần xung Thân, Mão xung Dậu, Thìn xung Tuất, Tị xung Hợi.
Và tứ xung hàng can: Giáp xung Canh, Ất xung Tân, Bính xung Nhâm, Đinh xung Quí, (Mậu Kỷ không xung). Nhưng khi kết hợp Lục thập hoa giáp theo hệ số 60, có 5 lần hàng chi (12) gặp 6 hàng can (10), quy vào ngũ hành tính tương sinh tương khắc thì có 1 lần tương khoá, 2 lần tương sinh, chỉ còn lại 2 lần xung khắc (hàng chi).
Thí dụ: Tính xem ngày (hoặc tháng, hoặc năm) Giáp Tý xung khắc với tuổi nào?
Tính hàng chi: Tý xung Ngọ, vậy Giáp Tý (xung với Giáp Ngọ, Canh Ngọ, Bính Ngọ, Nhâm Ngọ, và Mậu Ngọ). Xem bảng "kết hợp Lục thập hoa giáp với Ngũ Hành" ta thấy:
Giáp Tý thuộc Kim: Giáp Ngọ thuộc Kim vì thế tương hoà, Canh Ngọ thuộc Thổ, Bính Ngọ thuộc Thuỷ vì thế đều tương sinh chỉ có Nhâm Ngọ thuộc Mộc, Mậu Ngọ thuộc hoả là tương khắc.

Tính hàng can: Giáp xung Canh.
Giáp Tý thuộc Kim: Canh Tuất, Canh Thìn đều thuộc Kim vì thế tương hoà, Canh Tý, Canh Ngọ đều thuộc Thổ đều tương sinh, chỉ có Canh Dần và Canh Thân thuộc Mộc là tương khắc.
Vậy ngày (hoặc tháng năm), Giáp Tý chỉ có 4 tuổi xung khắc là Nhâm Ngọ, Mậu Ngọ, Canh Dần, Canh Thân.
Tương hình: Theo hàng chi có : Tý và Mão (một dương, một âm điều hoà nhau). Tỵ và Dần Thân (Tị âm điều hoà được với Dần thân dương, chỉ còn dần và thân tương hình nhau, nhưng đã tính ở lục xung ).
Theo luật điều hoà âm dương, chỉ khắc nhau trong trường hợp cả hai đều âm hoặc cả hai đều dương. Vì vậy chỉ còn lại 2 trường hợp tự hình nhau: Thìn với Thìn, Ngọ với Ngọ.
Tương hại: cũng là xấu. có 6 cặp tương hại nhau: Tý và Mùi, Sửu và Ngọ, Dần và Tị, Mão và Thìn, Thân và Hợi, Dậu và Tuất. Nhưng khi kết hợp với can chi, theo luật âm dương, tự triệt tiêu.
Tóm lại: Tính cả xung, khắc, hình, hại, trong số 60 can chi, chỉ có 2-4 ngày không hợp mệnh thôi, hơn nữa còn tuỳ theo mức độ xung khắc mạnh hay yếu (tuỳ theo bản mệnh).

Bảng đối chiếu Lục thập hoa giáp Ngũ Hành và cách tính tuổi xung khắc

Số
Ngày tháng năm
Ngũ hành
Tuổi xung khắc
1
Giáp Tý
Vàng trong biển (Kim)
Mậu Ngọ, Nhâm Ngọ, Canh Dần, Canh Thân
2
Ất Sửu
Kỷ Mùi, Quí Mùi, Tân Mão, Tân Dậu
3
Bính Dần
Lửa trong lò (Hoả)
Giáp Thân, Nhâm Thân, Nhâm Tuất, Nhâm Thìn
4
Ðinh Mão
Ất Dậu, Quí Dậu, Quí Tị, Quí Hợi
5
Mậu Thìn
Gỗ trong rừng (Mộc)
Canh Tuất, Bính Tuất
6
Kỷ Tị
Tân Hợi, Đinh Hợi
7
Canh Ngọ
Ðất ven đường (Thổ)
Nhâm Tý, Bính Tý, Giáp Thân, Giáp Dần
8
Tân Mùi
Quí sửu, Đinh Sửu, Ất Dậu, Ất Mão
9
Nhâm Thân
Sắt đầu kiếm (Kim)
Bính Dần, Canh Dần, Bính Thân
10
Quí Dậu
Ðinh Mão, Tân Mão, Đinh Dậu
11
Giáp Tuất
Lửa trên đỉnh núi (Hoả)
Nhâm Thìn, Canh Thìn, Canh Tuất
12
Ất Hợi
Quí Tị, Tân Tị, Tân Hợi
13
Bính Tý
Nước dưới lạch (Thuỷ)
Canh Ngọ, Mậu Ngọ
14
Ðinh Sửu
Tân Mùi, Kỷ Mùi
15
Mậu Dần
Ðất đầu thành (Thổ)
Canh Thân, Giáp Thân
16
Kỷ Mão
Tân Dậu, Ất Dậu
17
Canh Thìn
Kim bạch lạp (Kim)
Giáp Tuất, Mậu Tuất, Giáp Thìn
18
Tân Tị
Ất Hợi, Kỷ Hợi, Ất Tị
19
Nhâm Ngọ
Gỗ dương liễu (Mộc)
Giáp Tý, Canh Tý, Bính Tuất, Bính Thìn
20
Quí Mùi
Ất Sửu, Tân Sửu, Đinh Hợi, Đinh Tị
21
Giáp Thân
Nước trong khe (Thuỷ)
Mậu Dần, Bính Dần, Canh Ngọ, Canh Tý
22
Ất Dậu
Kỷ Mão, Đinh Mão, Tân Mùi, Tân Sửu
23
Bính Tuất
Ðất trên mái nhà (Thổ)
Mậu Thìn, Nhâm Thìn, Nhâm Ngọ, Nhâm Tý
24
Ðinh Hợi
Kỷ Tị, Quí Tị, Quí Mùi, Quí Sửu
25
Mậu Tý
Lửa trong chớp (Hoả )
Bính Ngọ, Giáp Ngọ
26
Kỷ Sửu
Ðinh Mùi, Ất Mùi
27
Canh Dần
Gỗ tùng Bách (Mộc)
Nhâm Thân, Mậu Thân, Giáp Tý, Giáp Ngọ
28
Tân Mão
Quí Dậu, Kỷ Dậu, Ất Sửu, Ất Mùi
29
Nhâm Thìn
Nước giữa dòng (Thuỷ)
Bính Tuất, Giáp Tuất, Bính Dần
30
Quí Tị
Ðinh Hợi, Ất Hợi, Đinh Mão
31
Giáp Ngọ
Vàng trong cát (Kim)
Mậu Tý, Nhâm Tý, Canh Dần, Nhâm Dần
32
Ất Mùi
Kỷ Sửu, Quí Sửu, Tân Mão, Tân Dậu
33
Bính Thân
Lửa chân núi (Hoả)
Giáp Dần, Nhâm Thân, Nhâm Tuất, Nhâm Thìn
34
Ðinh Dậu
Ất Mão, Quí Mão, Quí Tị, Quí Hợi
35
Mậu Tuất
Gỗ đồng bằng (Mộc)
Canh Thìn, Bính Thìn
36
Kỷ Hợi
Tân Tị, Đinh Tị.
37
Canh Tý
Ðất trên vách (Thổ)
Nhâm Ngọ, Bính Ngọ, Giáp Thân, Giáp Dần
38
Tân Sửu
Quí Mùi, Đinh Mùi, Ất Dậu, Ất Mão
39
Nhâm Dần
Bạch kim (Kim)
Canh Thân, Bính Thân, Bính Dần
40
Quí Mão
Tân Dậu, Đinh Dậu, Đinh Mão
41
Giáp Thìn
Lửa đèn (Hoả)
Nhâm Tuất, Canh Tuất, Canh Thìn
42
Ất Tị
Quí Hợi, Tân Hợi, Tân Tị
43
Bính Ngọ
Nước trên trời (thuỷ)
Mậu Tý, Canh Tý
44
Ðinh Mùi
Kỷ Sửu, Tân Sửu
45
Mậu Thân
Ðất vườn rộng (Thổ)
Canh Dần, Giáp Dần
46
Kỷ Dậu
Tân Mão, Ất Mão
47
Canh Tuất
Vàng trang sức (Kim)
Giáp Thìn, Mậu Thìn, Giáp Tuất
48
Tân Hợi
Ất Tị, Kỷ Tị, Ất Hợi
49
Nhâm Tý
Gỗ dâu (Mộc)
Giáp Ngọ, Canh Ngọ, Bính Tuất, Bính Thìn
50
Quí Sửu
Ất Mùi, Tân Mùi, Đinh Hợi, Đinh Tỵ
51
Giáp Dần
Nước giữa khe lớn (Thuỷ)
Mậu Thân, Bính Thân, Canh Ngọ, Canh Tý
52
Ất Mão
Kỷ Dậu, Đinh Dậu, Tân Mùi, Tân Sửu
53
Bính Thìn
Ðất trong cát (Thổ)
Mậu Tuất, Nhâm Tuất, Nhâm Ngọ, Nhâm Tý
54
Ðinh Tị
Kỷ Hợi, Quí Hợi, Quí Sửu, Quí Mùi
55
Mậu Ngọ
Lửa trên trời (Hoả)
Bính Tý, Giáp Tý
56
Kỷ Mùi
Ðinh Sửu, Ất Sửu
57
Canh Thân
Gỗ thạch Lựu (Mộc)
Nhâm Dần, Mậu Dần, Giáp Tý, Giáp Ngọ
58
Tân Dậu
Quí Mão, Kỷ Mão, Ất Sửu, Ất Mùi
59
Nhâm Tuất
Nước giữa biển (Thuỷ)
Bính Thìn, Giáp Thìn, Bính Thân, Bính DDần
60
Quí Hợi
Ðinh Tị, Ất Tị, Đinh Mão, Đinh Dậu


Thế nào là Âm dương , Ngũ hành ?
1. Thế nào là "Âm dương" ?
Âm và dương theo khái niệm cổ sơ không phải là vật chất cụ thể, không gian cụ thể mà là thuộc tính của mọi hiện tượng, mọi sự vật trong toàn vũ trụ cũng như trong từng tế bào, từng chi tiết. Âm và dương là hai mặt đối lập, mâu thuẫn thống nhất, trong dương có mầm mống của âm và ngược lại.
2. Thế nào là "Ngũ hành"?
Theo thuyết duy vật cổ đại, tất cả mọi vật chất cụ thể được tạo nên trong thế giới này đều do năm yếu tố ban đầu là nước, lửa, đất, cây cỏ và kim loại. Tức năm hành thuỷ, hoả, thổ, mộc, kim. Ðể giúp các bạn dễ nhớ ngũ hành tương sinh và tương khắc, chúng tôi nêu thí dụ mộc mạc đơn giản theo vần thơ như sau:
   
Ngũ hành sinh: thuộc lẽ thiên nhiên.
Nhờ nước cây xanh mọc lớn lên        (thuỷ sinh mộc)
Cây cỏ làm mồi nhen lửa đỏ             (mốc sinh hoả)
Tro tàn tích lại đất vàng thêm            (hoả sinh thổ)
Lòng đất tạo nên kim loại trắng          (thổ sinh kim)
Kim loại vào lò chảy nước đen           (kim sinh thuỷ)
Ngũ hành tương khắc: lẽ xưa nay
Rễ cỏ đâm xuyên lớp đất dày             (mộc khắc thổ)
Ðất đắp đê cao ngăn nước lũ             (thổ khắc thuỷ)
Nước dội nhiều nhanh dập lửa ngay   (thuỷ khắc hoả)
Lửa lò nung chảy đồng sắt thép         (hoả khắc kim)
Thép cứng rèn dao chặt cỏ cây          (kim khắc mộc)
Thuyết âm dương

Căn cứ nhận xét lâu đời về giới thiệu tự nhiên, người xưa đã nhận xét thấy sự biến hoá không ngừng của sự vật (thái cực sinh lưỡng nghi, lưỡng nghi sinh tứ tượng, tứ tượng sinh bát quái. Lưỡng nghi là âm và dương, tứ tượng là thái âm, thái dương, thiếu âm và thiếu dương. Bát quái là càn, khảm, cấn, chấn, tốn, ly, khôn và đoài).
Người ta còn nhận xét thấy rằng cơ cấu của sự biến hoá không ngừng đó là ức chế lẫn nhau, giúp đỡ, ảnh hưởng lẫn nhau, nương tựa lẫn nhau và thúc đẩy lẫn nhau.

Ðể biểu thị sự biến hoá không ngừng và qui luật của sự biến hoá đó, người xưa đặt ra "thuyết âm dương".
Âm dương không phải là thứ vật chất cụ thế nào mà thuộc tính mâu thuẫn nằm trong tất cả mọi sự vật. nó giải thích hiện tượng mâu thuẫn chi phối mọi sự biến hoá và phát triển của sự vật.
Nói chung, phàm cái gì có tính chất hoạt động, hưng phấn, tỏ rõ, ở ngoài, hướng lên, vô hình, nóng rực, sáng chói, rắn chắc, tích cực đều thuộc dương.

Tất cả những cái gì trầm tĩnh, ức chế, mờ tối, ở trong, hướng xuống, lùi lại, hữu hình, lạnh lẽo, đen tối, nhu nhược, tiêu cực đều thuộc âm.

Từ cái lớn như trời, đất, mặt trời, mặt trăng, đến cái nhỏ như con sâu, con bọ, cây cỏ, đều được qui vào âm dương. Ví dụ về thiên nhiên thuộc dương ta có thể kể: Mặt trời, ban ngày, mùa xuân, hè, đông, nam, phía trên, phía ngoài, nóng, lửa, sáng. thuộc âm ta có: Mặt trăng, ban đêm, thu, đông, tây, bắc, phía dưới, phía trong, lạnh nước, tối.
Trong con người, dương là mé ngoài, sau lưng, phần trên, lục phủ, khí , vệ Âm là mé trong, trước ngực và bụng, phần dưới ngũ tạng, huyết, vinh.
Âm dương tuy bao hàm ý nghĩa đối lập mâu thuẫn nhưng còn bao hàm cả ý nghĩa nguồn gốc ở nhau mà ra, hỗ trợ, chế ước nhau mà tồn tại. Trong âm có mầm mống của dương, trong dương lại có mầm mống của âm.
(Trích "Cây thuốc vị thuốc VN." của Ðỗ tất Lợi)
Thuyết ngũ hành
Thuyết ngũ hành về căn bản cũng là một cách biểu thị luật mâu thuẫn đã giới thiệu trong thuyết âmdương, nhưng bổ sung và làm cho thuyết âm dương hoàn bị hơn.
ngũ hành là : Kim, mộc, thuỷ, hoả, thổ.
Người xưa cho rằng mọi vật trong vũ trụ đều chỉ cho 5 chất phối hợp nhau mà tạo nên. Theo tính chất thì thuỷ là lỏng, là nước thì đi xuống, thấm xuống. Hoả là lửa thì bùng cháy, bốc lên.
Mộc là gỗ, là cây thì mọc lên cong hay thẳng.
Kim là kim loại, thuận chiều hay đổi thay.
Thổ là đất thì để trồng trọt, gây giống được.

 Tinh thần cơ bản của thuyết ngũ hành bao gồm hai phương diện giúp đỡ nhau gọi là tương sinh và chống lại nhau gọi là tương khắc. Trên cơ sở sinh và khắc lại thêm hiện tượng chế hoá, tương thừa, tương vũ. Tương sinh, tương khắc, chế hoá, tương thừa, tương vũ biểu thị mọi sự biến hoá phức tạp của sự vật.
Luật tương sinh: Tương sinh có nghĩa là giúp đỡ nhau để sinh trưởng. Ðem ngũ hành liên hệ với nhau thì thấy 5 hành có quan hệ xúc tiến lẫn nhau, nương tựa lẫn nhau.

Theo luật tương sinh thì thuỷ sinh mộc, mộc sinh hoả, hoả sinh thổ, thổ sinh kim, kim sinh thuỷ, thuỷ lại sinh mộc và cứ như vậy tiếp diễn mãi. Thúc đẩy sự phát triển không bao giờ ngừng. Trong luật tương sinh của ngũ hành còn bao hàm ý nữa là hành nào cũng có quan hệ về hai phương diện: Cái sinh ra nó và cái nó sinh ra, tức là quan hệ mẫu tử. Ví dụ kim sinh thuỷ thì kim là mẹ của thuỷ, thuỷ lại sinh ra mộc vậy mộc là con của Thuỷ.

Trong quan hệ tương sinh lại có quan hệ tương khắc để biểu hiện cái ý thăng bằng, giữ gìn lẫn nhau.
Luật tương khắc:Tương khắc có nghĩa là ức chế và thắng nhau. Trong qui luật tương khắc thì mộc khắc thổ, thổ lại khắc thuỷ, thuỷ lại khắc hoả, hoả lại khắc kim, kim khắc mộc, và mộc khắc thổ và cứ như vậy lại tiếp diễn mãi.
Trong tình trạng bình thường, sự tương khắc có tác dụng duy trì sự thăng bằng, nhưng nếu tương khắc thái quá thì làm cho sự biến hoá trở lại khác thường.

Trong tương khắc, mỗi hành cũng lại có hai quan hệ:Giữa cái thắng nó và cái nó thắng. Ví dụ mộc thì nó khắc thổ, nhưng lại bị kim khắc nó.
Hiện tượng tương khắc không tồn tại đơn độc; trong tương khắc đã có ngụ ý tương sinh, do đó vạn vật tồn tại và phát triển.
Luật chế hóa: Chế hoá là chế ức và sinh hoá phối hợp với nhau. Trong chế hoá bao gồm cả hiện tượng tương sinh và tương khắc. Hai hiện tượng này gắn liền với nhau.
Lẽ tạo hoá không thể không có sinh mà cũng không thể không có khắc. Không có sinh thì không có đâu mà nảy nở không có khắc thì phát triển quá độ sẽ có hại. Cần phải có sinh trong khắc, có khắc trong sinh mới vận hành liên tục, tương phản, tương thành với nhau.

Quy luật chế hoá ngũ hành là: mộc khắc thổ, thổ sinh kim, kim khắc mộc.
Hoả khắc kim, kim sinh thuỷ, thuỷ khắc hoả.
Thổ khắc thuỷ, thuỷ sinh mộc, mộc khắc thổ.
kim khắc mộc, mộc sinh hoả, hoả khắc kim.
Thuỷ khắc hoả, hoả sinh thổ, thổ khắc thuỷ.

Luật chế hoá là một khâu trọng yế trong thuyết ngũ hành. Nó biểu thị sự cân bằng tất nhiên phải thấy trong vạn vật. Nếu có hiện tượng sinh khắc thái quá hoặc không đủ thì sẽ xảy ra sự biến hoá khác thường. Coi bảng dưới đây chúng ta thấy mỗi hành đều có mối liên hệ bốn mặt. Cái sinh ra nó, cái nó sinh ra, cái khắc nó và cái bị nó khắc.

Ví dụ: Mộc khắc thổ nhưng thổ sinh kim, kim lại khắc mộc. Vậy như nếu mộc khắc thổ một cách quá đáng, thì con của thổ là km tất nhiên nổi dậy khắc mộc kiểu như con báo thù cho mẹ. Nghĩa là bản thân cái bị có đầy đủ nhân tố chống lại cái khắc nó.Cho nên, mộc khắc thổ là để tạo nên tác dụng chế ức, mà duy trì sự cân bằng. Khắc và sinh đều cần thiết cho sự giữ gìn thế cân bằng trong thiên nhiên.

Cũng trong bảng quan hệ chế hoá, chúng ta thấy mộc sinh hoả nếu chỉ nhìn nhành mộc không thôi, thì như mộc gánh trọng trách gây dựng cho con là hoả, nhưng nhờ có hoả mạnh, hạn chế bớt được sức của kim là một hành khắc mộc. Như vậy mộc sinh con là hoả, nhưng nhờ có con là hoả mạnh mà hạn chế bớt kim làm hại mộc do đó mộc giữ vững cương vị.  

Ngũ hành
Mộc
Hoả
Thổ
Kim
Thuỷ
4 mùa
4 phương
Thời tiết, Khí
Mầu săc
Mùi vị
Bát quái
Thập can
Thập nhi chi

Ngũ tạng
Lục phủ

Ngũ khiếu
Cơ thể
Xuân
Đông
Ấm
Xanh
Chua
Ly - Cấn
Giáp - Ất
Dần - Mão

Gan (can)
Đảm (mật)

Mắt
Gân
Hạ
Nam
Nóng
Đỏ
Đắng
Càn - Tôn
Bính - Đinh
Tị - Ngọ

Tim (tâm)
Tiểu trường
(ruột non)
Lưỡi
Mạch

Giữa
Ẩm
Vàng
Ngọt

Mậu - Kỷ
Thìn - Tuất, Sửu - Mùi
Tỳ

Vị (dạ dày)

Miệng
Thịt
Thu
Tây
Mát
Trắng
Cay
Khảm - Đoài
Canh - Tân
Thân - Dậu

Phổi (phế)
Đại trường
(ruột già)
Mũi
Da - Lông
Đông
Bắc
Lạnh
Đen
Mặn
Khôn - Chấn
Nhâm-Quí
Hơi - Tí

Thận
Bàng quang
(bong bóng)
Tai
Xương

Thiên can, Địa chi là gì ?
Mười thiên can - theo thứ tự từ 1 đến 10 là:
1.       Giáp
2.       Ất
3.       Bính
4.       Đinh
5.       Mậu

Xung khắc
6.       Kỷ
7.       Canh
8.       Tân
9.       Nhâm
10.    Quí

·        Số chẵn là âm (Ất, Đinh, Kỷ, Tân, uí)
·        Ngày lẻ (dương can)là ngày cương (đối ngoại)
·        Ngày chẵn (âm can) là ngày cương (đối nội)

·         Những cặp đối xung: 
·         Giáp và Kỷ, Ất và Canh, Bính và Tân, Đinh và Nhâm, Mậu và Quí.
Mười hai địa chi - Theo thứ tự từ 1 đến 12 là :
1.      
2.       Sửu
3.       Dần
4.       Mão
5.       Thìn
6.       Tỵ
Xung khắc
1.       Ngọ
2.       Mùi
3.       Thân
4.       Dậu
5.       Tuất
6.       Hợi

·                Số lẻ là dương chi chỉ kết hợp với âm can. Ví dụ: Giáp Ttý, Canh Ngọ...
·                Số chắn là âm chi chỉ kết hợp với âm can. Ví dụ: Tân Sửu, Quí Mùi...


·         Những cặp đối xung: Tý và Ngọ, Sửu và Mùi, Dần và Thân, Mão và Dậu, Thìn và Tuất, Tị và Hợi (nghĩa là hơn kém nhau 6).
·         Tương hợp: Có hai loại, nhị hợp và tam hợp.
·         Nhị hợp: Tý - Sửu, Mão - Tuất, Tị - Thân, Dần - Hợi, Thìn - Dậu, Ngọ - Mùi
Tam hợp: Thân - Tý - Thìn, Dần - Ngọ - Tuất, Hơi - Mão - Mùi, Tị - Dậu - Sửu
·         Như vậy mỗi chi chỉ có một xung (ví dụ Tý xung Ngọ), ba hợp (ví dụ Tý hợp Sửu, Tý hợp với Thân và Thìn).